Ngày mai 20.6, đúng 100 năm ngày sinh của nhà thơ Tế Hanh. Ông sinh ngày 20.6.1921 tại làng Đông Yên, xã Bình Dương (H.Bình Sơn, Quảng Ngãi). Năm 1938, thi sĩ Tế Hanh bắt đầu sáng tác bài thơ đầu tiên Những ngày nghỉ học rồi sau này tập hợp thành tập Nghẹn ngào. Năm 1939 tập thơ này đoạt giải khuyến khích của Tự Lực văn đoàn.
|
Tình yêu của Tế Hanh dường như vô tận
Chất liệu làm nên thơ ông là những gì rất quen thuộc, đó là quê hương với dòng sông, cánh đồng; là hoa quỳnh, rặng liễu, đám cỏ, cây me, cây sấu, bằng lăng; là dế mèn, chim én; đôi khi là ánh trăng, mặt trời và cả những gì từ điển tích như Ngưu Lang, Chức Nữ, nhịp cầu Ô Thước hay sông Ngân, mưa ngâu…
Đâu đó trong thơ ông thấp thoáng những màu tươi tắn: “Trời xanh màu lá xanh, bóng chè xanh”; kế đến là màu “huệ trắng, màu giấy trắng, màu trắng tuyết, màu trắng hoa”; rồi màu cuộc đời “giống như em má ửng hồng”, màu “lá phong đỏ như mối tình đượm lửa”. Không có những màu buồn, u tối trong thơ ông, thay vào đó ngập tràn những “nắng vàng, lá vàng”, cái màu vàng của mùa thu: “Một màu vàng bất tuyệt, Một màu vàng vô biên” hay những câu óng ánh như “rót mật ong trải nắng vàng”, “Hoa cúc vàng như nỗi nhớ day dưa”…
Dường như Tế Hanh rất tiết chế âm thanh, nói cách khác, rất ít âm thanh trong thơ ông, chỉ có “tiếng còi tàu biệt ly” thoáng qua, “tiếng chuông rời rạc”, “tiếng cú kêu lạnh lẽo giục cơn sầu” hay “tiếng kêu mất mẹ bi thương của con gà nhỏ lạc trong thôn”. Ngay cả bài có nhan đề Kể lể, Tế Hanh cũng không cho thấy âm thanh nào cả.
Thời gian trong thơ ông không phải là quá khứ, tương lai hay hiện tại, đơn giản chỉ là những bình minh, hoàng hôn, song hiếm khi đêm tối, chỉ có “buổi chiều trầm mặc”, “dáng chiều lặng lẽ”. Mùa xuân và mùa hạ thoáng qua, quanh đi quẩn lại vẫn là mùa thu, tiếng thu đồng vọng trong thơ ông qua khá nhiều bài.
Sau năm 1945, khuynh hướng sáng tác của Tế Hanh hiện thực hơn, đậm chất tự sự hơn, đặc biệt là trong tập Lòng miền Nam (1956) – một tập thơ nói về quê hương, chiến tranh và con người, tình đồng chí, tình quân dân, khát vọng hòa bình: “Chúng ta nhìn nhau, Hai bàn tay siết chặt, Như đất nước chúng ta không thể nào chia cắt, Bắc Nam máu chảy một dòng”. Hình tượng người mẹ trong thơ ông bây giờ chính là ‘bà mẹ Việt Nam” tham gia kháng chiến. Đến tập thơ Tiếng sóng (1960) thì vẫn còn đó những âm thanh của chiến tranh, song dường như nhẹ nhàng hơn.
|
Về bố cục, trong giai đoạn đầu sáng tác, phần lớn thơ ông chỉ có 4 câu, thậm chí 2 câu cũng trở thành một bài thơ. Một số bài 8 câu chia thành 2 khổ; mỗi khổ 4 câu. Về sau tăng dần lên, khá nhiều câu 7 – 8 chữ, không có nhiều câu 9 chữ, tuy nhiên lại có những câu cá biệt lên tới 15 chữ (bài Văn xuôi cho em). Riêng bài Tiếng sóng là một trong những bài dài nhất với 15 khổ thơ, những khổ thơ dài nhất có từ 22 đến 25 câu.
|
Nhà thơ Tế Hanh có khá nhiều bài nói về tình yêu, không chỉ thể hiện từ nhan đề bài thơ như Anh yêu em, Ta đã yêu em, Nói về tình yêu, Tình yêu và vĩnh viễn... mà còn rõ nét trong những bài có vẻ như chẳng liên quan đến ái tình: Bão, Trăng, Cái nhìn, Bên phải bên trái hay Con đường... Tình yêu của Tế Hanh dường như vô tận: “Anh yêu em như hoa nở không nghĩ đến giờ tàn, Anh yêu em như trăng tròn không nghĩ đến hồi khuyết”. Ông quy phục trước ái tình: “Anh đến với em là lẽ tất nhiên, Như con sông trở về với biển… Như con chim buổi chiều quay về tổ”…